Mật độ cá thể trong quần thể là nhân tố điều chỉnh

Câu hỏi: Mật độ cá thể trong quần thể là yếu tố điều chỉnh

A. cơ cấu tuổi của quần thể

B. kiểu phân bố cá thể của quần thể

C. mức sinh sản và mức tử vong của các cá thể trong quần thể

D. tỉ lệ giới tính trong quần thể

Câu trả lời:

Đáp án: C. mức sinh sản và mức tử vong của các cá thể trong quần thể

Tỉ trọng là số lượng, khối lượng hoặc năng lượng riêng của quần thể trên một đơn vị diện tích hoặc thể tích mà quần thể đó sinh sống. Nó cũng cho thấy khoảng cách trung bình giữa các cá thể trong sự phân bố của quần thể.

Tỉ trọng có ý nghĩa sinh học to lớn, như một tín hiệu sinh học thông báo cho các quần thể về trạng thái phong phú hoặc nhanh chóng để tự điều chỉnh. Khi số lượng cá thể tăng lên thì mật độ quần thể tăng lên. Điều này dẫn đến suy giảm nguồn sống của môi trường và ô nhiễm môi trường. Kết quả là khả năng sinh sản giảm, bệnh tật gia tăng làm chết nhiều cá thể, số lượng cá thể và mật độ giảm. Mật độ giảm, nguồn sống của môi trường cung cấp cho cá thể tăng, độ ô nhiễm môi trường giảm, sức sống và khả năng sinh sản của cá thể tăng, số lượng cá thể tăng. Quá trình này lặp đi lặp lại giúp quần thể duy trì số lượng phù hợp với điều kiện môi trường. Và theo đó mật độ cũng chi phối hoạt động sinh lý của cá thể.

Cách xác định tỷ trọng:

– Đối với quần thể vi sinh vật: đếm số lượng khuẩn lạc trong một thể tích môi trường nuôi cấy xác định.

– Thực vật nổi (phytoplankton), động vật phù du: đếm số lượng cá thể trong một thể tích nước nhất định.

– Thực vật, động vật đáy (ít di chuyển): xác định số lượng trên ô tiêu chuẩn.

– Cá dưới nước: đánh dấu cá thể, bắt lại, từ đó tìm ra quy mô quần thể, suy ra mật độ. Công thức:

[CHUẨN NHẤT]    Mật độ cá thể trong quần thể là công cụ điều chỉnh

Trong đó:

– N: Số lượng cá thể của quần thể tại thời điểm đánh dấu

– M: Số cá thể được đánh dấu lấy mẫu lần đầu

– C: Số cá thể được đánh dấu lấy mẫu lần 2

Xem thêm bài viết hay:  Soạn bài Đàn ghi ta của Lor-Ca (chi tiết)

– R: Số cá thể đánh dấu xuất hiện ở lần lấy mẫu thứ hai

– Động vật lớn: Quan sát trực tiếp hoặc gián tiếp: đếm tổ (chim), dấu chân (trên đường đi kiếm ăn), số con mắc bẫy..

Khả năng sinh sản và cái chết

khả năng sinh sản là khả năng tăng số lượng của quần thể. Nó phụ thuộc vào khả năng sinh sản của cá nhân. Đặc biệt:

– Số lượng trứng hoặc con trong một lần sinh, khả năng chăm sóc trứng hoặc con của cá thể loài đó

– Số lứa đẻ trong năm (đời), thành thục sinh dục

– Tỉ trọng

Cái chết là sự giảm số lượng cá thể trong cơ thể. Nó phụ thuộc vào:

– Giới tính: sức sống của cá thể cái so với cá thể đực

– Nhóm tuổi (cá thường chết ở giai đoạn trứng nước, tức là chết đồng đều ở các lứa tuổi)

– Điều kiện sống

Hãy cùng trường THCS Ngô Thì Nhậm tìm hiểu về khái niệm quần thể và những nét cơ bản của quần thể sinh vật nhé!

A. Khái niệm quần thể.

– Các cá thể không thể tồn tại độc lập mà phải sống trong một tổ chức xác định để sinh sản, chống lại kẻ thù và sử dụng tốt nhất nguồn thức ăn từ môi trường. Tổ chức đó là quần thể sinh vật.

Quần thể là nhóm cá thể của loài, phân bố trong khu phân bố của loài vào một thời điểm nhất định, có khả năng sinh sản (hữu tính, vô tính, sinh sản) để tạo ra những thế hệ mới có khả năng sinh sản. . Ví dụ: Hoa sen trong đầm, đàn voi châu Phi… đều là quần thể.

B. Các đặc trưng cơ bản của quần thể sinh vật

Mỗi quần thể sinh vật đều có những đặc điểm cơ bản riêng, là dấu hiệu phân biệt giữa quần thể này với quần thể khác. Đó là các đặc điểm về tỉ lệ giới tính, nhóm tuổi, phân bố cá thể, mật độ cá thể, kích thước quần thể….

I. Tỷ số giới tính

Tỉ lệ giới tính là tỉ số giữa số lượng nam giới với số lượng nữ giới trong một quần thể. Tỷ lệ giới tính thường xấp xỉ 1/1. Tuy nhiên, trong quá trình sống, tỷ lệ này có thể thay đổi tùy theo loài, thời gian, điều kiện sống, mùa sinh sản, sinh lý và tập tính của sinh vật.

Xem thêm bài viết hay:  Bóng nửa tối là gì? Lấy ví dụ về bóng nửa tối

II. Nhóm tuổi

Cơ cấu tuổi được chia thành:

Tuổi sinh lý: khoảng thời gian mà một cá nhân có thể sống.

+ Tuổi sinh thái: thời gian sống thực tế của cá thể

Tuổi quần thể: tuổi trung bình của các cá thể trong quần thể.

– Thành phần nhóm tuổi của quần thể thay đổi tuỳ loài và điều kiện sống của môi trường. Khi nguồn sống suy giảm, điều kiện khí hậu xấu đi, dịch bệnh xảy ra…, người già và trẻ chết nhiều hơn người ở nhóm tuổi trung bình.

– Nghiên cứu nhóm tuổi giúp chúng ta bảo vệ và khai thác tài nguyên sinh vật hiệu quả hơn. Ví dụ, khi đánh cá, nếu lưới nào cũng được nhiều cá, thì nghề cá chưa được khai thác hết tiềm năng; nếu chỉ thu được những con cá nhỏ, nghề cá sẽ bị đánh bắt quá mức.

III. Phân bố cá thể trong quần thể

Có 3 hình thức phân phối:

1. Phân bổ theo nhóm:

– Là kiểu phân bố phổ biến nhất, quần thể tập trung thành từng nhóm ở những nơi có điều kiện sống tốt nhất. Kiểu phân bố này xảy ra ở động vật bầy đàn, các cá thể này hỗ trợ nhau chống lại các điều kiện bất lợi của môi trường (di cư, trú đông, chống lại kẻ thù, v.v.)

2. Phân bổ đều:

– Phổ biến khi điều kiện sống phân bố đồng đều và có sự cạnh tranh gay gắt giữa các cá thể trong quần thể. Kiểu phân phối này làm giảm sự cạnh tranh gay gắt.

3. Phân phối ngẫu nhiên:

– Là dạng trung gian của 2 dạng trên. Kiểu phân bố này giúp sinh vật tận dụng được nguồn sống tiềm tàng của môi trường.

IV. Mật độ cá thể trong quần thể

– Số lượng cá thể sống trên một đơn vị diện tích hay thể tích của quần thể. Mật độ cá thể trong quần thể có ảnh hưởng đến mức độ sử dụng các nguồn tài nguyên trong môi trường, đến khả năng sinh sản và tử vong của các cá thể. Mật độ cá thể không cố định mà thay đổi theo mùa, theo năm hoặc tuỳ theo điều kiện sống.

Xem thêm bài viết hay:  Giải Bài 6 trang 55 SGK Hóa 12

Sự khác biệt về tỷ lệ giới tính của sinh vật

tỷ lệ giới tính

Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ số giới tính

ngan và vịt có tỉ lệ giới tính 40/60

Trước mùa sinh sản, nhiều loài thằn lằn và rắn có nhiều con cái hơn con đực. Sau mùa sinh sản, số lượng con đực và con cái gần bằng nhau.

Do tỷ lệ tử vong khác nhau giữa con đực và con cái, con cái trong mùa sinh sản chết nhiều hơn con đực.
Với loài kiến ​​nâu (Formica rufa), nếu đẻ trứng ở nhiệt độ thấp hơn 20oC thì toàn bộ số trứng đó sẽ nở, còn nếu đẻ trứng ở nhiệt độ trên 20oC thì hầu hết số trứng đó đều do con đực ấp. Tỉ lệ giới tính thay đổi theo điều kiện môi trường (nhiệt độ)
Gà, nai, nai sừng tấm có số lượng con cái gấp 2 hoặc 3 lần con đực, đôi khi tới 10 lần Do đặc điểm sinh sản và tập tính đa thê ở động vật
Muỗi đực tập trung ở một nơi riêng với số lượng nhiều hơn muỗi cái Do sự khác biệt về sinh lý và hành vi của con đực và con cái – muỗi đực không hút máu như muỗi cái. Muỗi đực tập trung một chỗ trong khi muỗi cái bay khắp nơi tìm con vật hút máu.
Ở cây Arisaema japonica (Arisaema japonica) thuộc họ Ayaceae, phần củ lớn chứa nhiều chất dinh dưỡng sẽ ra hoa cái khi nảy chồi, còn rễ nhỏ nhú ra hoa đực. Tỷ lệ giới tính phụ thuộc vào lượng chất dinh dưỡng tích lũy trong cơ thể.

Đăng bởi: THCS Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Sinh học lớp 12 , Sinh học 12

Bạn thấy bài viết Mật độ cá thể trong quần thể là nhân tố điều chỉnh
có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Mật độ cá thể trong quần thể là nhân tố điều chỉnh
bên dưới để duhoc-o-canada.com có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: duhoc-o-canada.com của duhoc-o-canada.com

Chuyên mục: Giáo dục

Nhớ để nguồn bài viết này: Mật độ cá thể trong quần thể là nhân tố điều chỉnh
của website duhoc-o-canada.com

Viết một bình luận