Phân tích cảnh đám ma gương mẫu trong Hạnh phúc của một tang gia | Ngữ Văn 11

Đề bài: Phân tích cảnh đám ma gương mẫu trong Hạnh phúc của một tang gia

Dàn ý tham khảo:

1. Mở bài

– Giới thiệu ngắn gọn tác giả Vũ Trọng Phụng và đoạn trích Hạnh phúc một tang gia

– Dẫn dắt vào vấn đề nghị luận: cảnh đám ma gương mẫu

2.Thân bài

– Khái quát chung

– Phân tích

Cảnh đám ma gương mẫu được tổ chức long trọng, hoành tráng đúng ý muốn của cụ cố Hồng: đám ma tổ chức theo cả lối Ta, Tàu, Tây, có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, lốc bốc xoảng và bú dích, và vòng hoa, ba trăm câu đối, vài trăm người đi đưa…

Phân tích cảnh đám ma gương mẫu trong Hạnh phúc của một tang gia

– Cảnh đưa đám:

Người đi đưa gồm những ông “tai to mặt lớn”, họ rất cảm động khi “trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết”. Trong số những người đi đưa có rất nhiều những giai thanh gái lịch, họ thản nhiên chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau… với vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa đám ma.

Đám đi qua bốn phố, đi đến đâu làm huyên náo đến đó. Bạn cậu tú Tân thi nhau chụp ảnh như ở hội chợ.

– Xuân Tóc Đỏ xuất hiện đúng lúc cùng với sáu chiếc xe và hai vòng hoa đồ sộ càng làm cho đám ma thêm nhốn nháo.

→ Cảnh đưa đám có vẻ ngoài long trọng nhưng chẳng khác gì một đám rước lố lăng, vô văn hóa của những con người vô đạo đức.

– Đỉnh cao của đám ma là cảnh hạ huyệt:

  • Cậu tú Tân bắt bẻ mọi người tạo dáng để chụp ảnh kỉ niệm lúc hạ huyệt, bạn của cậu nhảy lên các nấm mộ khác để chụp cho ảnh khỏi giống nhau.
  • Ông Phán mọc sừng oặt người đi khóc mãi không thôi và dúi vào tay Xuân một cái giấy bạc năm đồng gấp tư.

– Nghệ thuật:

  • Miêu tả từ xa đến gần, kết hợp giữa âm thanh, màu sắc. Sử dụng điệp ngữ Đám cứ đi…
  • Nghệ thuật tương phản, đối lập, khắc họa chân dung biếm họa. Giọng điệu mỉa mai, châm biếm.

Kết bài

– Nhận xét, đánh giá chung về giá trị của vấn đề

– Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân

Bài văn mẫu số 1:

Vũ Trọng Phụng là một trong số những cây bút hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX với ngòi bút trào phúng sắc sảo bậc thầy. Có thể nói tiểu thuyết Số đỏ là một trong số những sáng tác tiêu biểu nhất của ông. Toàn bộ tác phẩm đã vạch rõ bộ mặt của tầng lớp thị dân thành thị và dường như tất cả những điều đó đã được kết tinh một cách trọn vẹn trong chương sách Hạnh phúc của một tang gia. Đọc Hạnh phúc của một tang gia chắc hẳn bạn đọc sẽ không thể nào có thể quên được cảnh “đám ma gương mẫu” của cụ cố Hồng.

Trước hết, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã quan sát một cách tỉ mỉ, chi tiết và vẽ nên bức tranh cảnh đưa đám cụ cố Tổ với nhiều nét lố bịch, đấy là một đám ma to nhất Hà thành và náo nhiệt như một đám hội. Lẽ thường, nơi đám ma bao giờ người ta cũng cảm nhận được cái không khí hiu quạnh, buồn thương, tiếc nuối ấy vậy mà, giờ đây, cảnh đưa tang của cụ cố tổ mới thật khác người. Một cái đám ma “theo cả lối Ta, Tàu, Tây, có cả kiệu bát cống, lợn quay đi lọng”, rồi đến cả những “lốc bốc xoảng, bú-dích và vòng hoa, có cả vài ba trăm người đi đưa,…”. Có lẽ, ở cái đất này, chưa có ai có cái đám tang to như thế, to đến mức có thể khiến cho “người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười.” Đấy là một cách nói đầy mỉa mai của tác giả bởi cả nhà cụ cố Hồng đã biến cái đám ma của cụ cố Tổ trở thành nơi để khoe giàu sang, tiền của. Cảnh đưa tang đã không còn sự tĩnh lặng, ảm đạm, thê lương khi mất đi một người thân yêu mà thay vào đó như một đám hội, nhộn nhịp “đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy.”

Thêm vào đó, cái lố lăng, đầy nghịch lí của đám đưa tang còn được tác giả khắc họa rõ nét qua hình tượng những người tham dự đám tang. Tuyết với “bộ y phục Ngây thơ – cái áo dài voan mỏng, trong có coóc-xê, trông như hở cá nách và nửa vú – nhưng mà viền đen và đội một cái mũ mấn xinh xinh”. Dường như, đám tang đã trở thành dịp để Tuyết chứng minh với mọi người mình vẫn còn trinh chứ không phải là người hư hỏng. Đó còn là những người bạn của cụ cố Hồng, “ngực đầy những huy chương như Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh,…trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn,…”.

Có lẽ với những người bạn thân của cụ cố Hồng, đám ma đã trở thành nơi để họ khoe và thi huy hiệu, thi râu. Nhưng có lẽ không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn miêu tả, tái hiện lại hình ảnh của những người bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn,… – họ là những người tân thời ấy vậy mà ngay trong đám tang của người chết, họ lại “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa đám”. Thêm vào đó, điệp khúc “đám cứ đi…” lặp lại nhiều lần với một ý nghĩa rất đặc biệt. Để rồi, đằng sau cái điệp ngữ ấy, đằng sau cái dòng người đông đúc đang đi đưa đám ấy người ta nhận thấy cái bộ mặt lố bịch, giả dối của họ với vẻ ngoài có vẻ đượm buồn nhưng từ sâu trong họ lại là một niềm sung sướng, khoan khoái khác thường.

Đặc biệt, cảnh đám tang còn để lại ấn tượng và ý nghĩa sâu sắc với người đọc ở cảnh hạ huyệt. Cảnh hạ huyệt như một màn hài kịch mà ở trên sân khấu ấy mọi người đang cố hoàn thành xuất sắc vai diễn của mình. Cậu Tú tân đang biểu diễn vai diễn của một người thợ chụp ảnh, cố dàn dựng để tất cả mọi người có thể hoàn thành vai diễn của mình “bắt bẻ từng người một, hoặc chống gây, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt như thế này thế nọ,…để cậu chụp ảnh lúc kỉ niệm.” Thêm vào đó, để lại ám ảnh sâu sắc với bạn đọc ở cảnh hạ huyệt còn là tiếng khóc “hứt…hứt…hứt…” của ông Phán mọc sừng. Người ta sẽ nghĩ tiếng khóc ấy ẩn chứa bao nỗi buồn, bao niềm xót thương với người ra đi, nhưng không, tiếng khóc ấy là cách để ông Phán giấu đi một thương vụ mua bán, trao đổi với Xuân Tóc Đỏ. Và như vậy, với ngòi bút trào phúng bậc thầy của mình, Vũ Trọng Phụng đã vẽ nên cảnh hạ huyệt với đầy rẫy những trò bịp bợm, tất cả như một vở hài kịch mà mỗi người đều có cho mình một mục đích riêng.

Tóm lại, với ngòi bút châm biếm sắc sảo, Vũ Trọng Phụng đã khắc họa thành công cảnh đám tang của cụ cố Hồng, qua đó cho thấy bộ mặt đểu cáng, bịp bợm đầy những dối gian của những con người trong xã hội thượng lưu thời bấy giờ.

Bài văn mẫu số 2:

Trong nền văn học Việt Nam đã xuất hiện nhiều cây bút nổi tiếng như Nguyễn Khuyến, Tú Xương. Nhưng đến Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939) thì người đời mới coi ông là bậc thầy của nghệ thuật trào phúng. Quãng đời sáng tác của Vũ Trọng Phụng rất ngắn ngủi nhưng sự nghiệp lại rất đồ sộ đặc sắc, đặc biệt là ông để lại những kiệt tác như tiểu thuyết “Số đỏ” 1936. Trong tiểu thuyết “Số đỏ” thì “Hạnh phúc của một tang gia” là chương nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng có dịp tung hoành nhất. Ông đã đưa vào trang sách hàng trăm người đại diện cho cả cái xã hội thượng lưu để mà giễu nhại lật tẩy cái giả nhân giả nghĩa của xã hội nửa tây nửa ta trước cách mạng tháng Tám. Ấn tượng nhất trong nghệ thuật trào phúng là ở cảnh Vũ Trọng Phụng diễn tả đám tang đám đông.

Xem thêm bài viết hay:  Viết các phương trình hóa học chứng minh tính oxi hóa

Tiểu thuyết “Số đỏ” tác giả dựng lên một sự đểu giả nhốn nháo của cái xã hội nửa tây nửa ta âu hóa trước cách mạng. Xã hội đó được thu nhỏ trong một gia đình thượng lưu gồm nhiều thế hệ do cụ cố Tổ đứng đầu. Cụ cố Tổ là một đại gia giàu có nên có viết chúc thư sẽ chia của cho con cháu khi chết. Đám con cháu đã tìm mọi cách làm cho cụ Tổ chết sớm để chia của, cuối cùng họ đã tìm ra được cách hay nhất đó là thuê Xuân Tóc Đỏ tố cáo ông Phán người cháu rể bị mọc sừng. Cụ Tổ vốn là đại biểu cho gia phong nề nếp nên khi nghe tin đó đã uất ức mà chết. Thay vì việc buồn đau vì một cây cổ thụ ngã xuống thì đám con cháu lại hả hê hạnh phúc. Cái loạn đó từ trong gia đình đã lan ra cả đám tang dẫn đến đám tang cũng nhốn nháo cũng đểu giả.

Trong gia đình thượng lưu này vừa có ta vừa có tây nhưng cụ cố Tổ là một con người của gia phong nề nếp, một con người luôn giữ truyền thống những giá trị văn hóa bao đời nay. Với một con người như thế đám tang diễn ra phải đúng với phong tục truyền thống phải trang trọng trang nghiêm. Nhưng sự thể lại không như truyền thống vốn có mà ngược lại hoàn toàn. Đám tang thì có heo quay đi lộng, một việc xưa nay hiếm. Lối tổ chức đám tang lại vừa ta vừa tàu vừa tây láo nháo hỗn loạn. Làm rộn lên đám tang lại là cậu Tú Tân, cậu như là người chỉ huy của đám tang vậy đó cũng là điều khác lạ. Chi tiết nực cười nhất làm vỡ tung hình ảnh của một đám tang truyền thống đó là Xuân Tóc Đỏ cùng với một đoàn người khác chen vào vào trước đám tang. Thông thường đám tang thường diễn ra theo một trật tự rất có tổ chức nghiêm trang thì nay được chen ngang như một đám rước đó là chuyện nực cười không thể tưởng tượng nổi. Với một sự hỗn loạn như thế đám tang đã làm náo loạn tất cả những khu phố đi qua. Với một điệp từ “đám cứ đi” nhà văn còn gợi lên cho người đọc một đám tang rộng dài như một đám biểu tình, như một đám rước hội.

Một đám tang thật đông vui có đến ba trăm người nhưng ba trăm người đó có thái độ như thế nào trong đám tang. Ba trăm người là ba trăm tâm trạng vui. Nhà văn không đi miêu tả tâm trạng của từng người từng kẻ mà nhấn mạnh tâm trạng thái độ của ba hạng người: những người bạn của cụ cố Hồng đại diện cho phái truyền thống, những người bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh đại diện cho phái tân tiến âu hóa, cậu Tú Tân, ông Phán, cụ cố Hồng đại diện cho tang gia.

Những người bạn của cụ cố Hồng là những kẻ tai to mặt lớn, đáng lí họ phải làm gương cho con cháu, phải có một thái độ văn hóa nhất trang nghiêm nhất. Thì trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng lại cho họ xuất hiện hoàn toàn khác hẳn với điều lẽ ra họ nên có, họ đi đám tang là để khoe huân chương và khoe các bộ ria. Họ đi đám tang là để có dịp tâm sự về chuyện “vợ con gia đình, về cái tủ mới sắm cái áo mới may”. Tệ hại hơn hết là họ có thái độ đểu giả thiếu nghiêm túc trong việc dúi mắt vào làn da trắng thập thò của cô Tuyết mà quên đi phận sự của mình là đang tiễn đưa người quá cố đáng kính.

Những người trai thanh gái lịch hà thành hiện thân cho văn minh âu hóa thì lại đi chiêm chọc nhau ghen tuông ghè biểu nhau, họ nói toàn những chuyện xa lạ với đám tang. Đó là thái độ vô văn hóa của một lớp người luôn nghĩ mình là văn hóa văn minh nhất.

Còn thái độ hành động của thân chủ tang gia thì sao? Vẫn là một tâm trạng vui sướng hạnh phúc thường trực trong mỗi thành viên. Khi cụ cố Tổ chết cả nhà đều mừng khi đám tang diễn ra cũng thế. Bà cụ Hồng thì “sung sướng reo lên” giữa đám tang khi Xuân Tóc Đỏ đưa đến hai vòng hoa chen ngang vào giữa đám tang. Cụ bà đã thốt lên “ấy, nếu thiếu cái ấy thì không được to may nhờ anh Xuân nghĩ hộ tôi”. Trong khi đó cậu Tú Tân lại lăn xăn chụp ảnh như trong hội chợ. Cụ cố Hồng thì giả đò mếu máo cho hợp hoàn cảnh, còn ông cháu mọc sừng người được hưởng lợi nhất trong cái chết cụ cố Tổ thì dở một trò chó đểu nhất đó là dúi năm đồng gấp tư vào tay Xuân Tóc Đỏ để trả tiền công. Hành động này lại càng đểu giả hơn khi được bao che bởi tiếng khóc giả đò hức hức, đó là tiếng khóc đánh lạc hướng quan khách đánh lạc hướng đám đông nhưng không che được mắt Vũ Trọng Phụng.

Nghệ thuật trào phúng là bằng mọi cách để tạo ra tiếng cười, có khi là tiếng cười đau xót xót xa chua chát, có khi là tiếng cười sảng khoái để mà phê phán. Tiếng cười Vũ Trọng Phụng vừa có sự kết hợp giữa chua chát và sảng khoái với thiên về tiếng cười sảng khoái để làm bùng nổ nội dung tiếng cười phê phán. Ở chương mười lăm này Vũ Trọng Phụng đã dùng các thủ pháp trào phúng cơ bản đó là tạo ra mâu thuẫn đối lập giữa buồn và vui, giữa trang nghiêm và bát nháo và nghệ thuật trào phúng.

Qua việc phân tích cảm tượng đám đông đám tang ở trên tác giả đã làm lộ rõ các mâu thuẫn này: đám tang lẽ ra buồn đau ai oán thì cả gia đình đều vui, cả đám đông quan khách cũng đều một trạng thái ấy. Đám tang theo cái lí ở đời phải trang nghiêm, phải đạo trang nghiêm, ngược lại thì là một sự láo nháo hỗn loạn như hội chợ. Có lẽ người đọc nhớ nhất, ám ảnh nhất về nghệ thuật diễn tả đám tang này là nghệ thuật phóng đại. Ở trong đời kể cả những người không tin thì lúc hạ huyệt một người thân cũng khó có thể xảy ra hành động như ông Phán mọc sừng. Tác giả đã phóng đại chi tiết này nhưng là sự phóng đại có logic có thể chấp nhận được. Giá trị sự phóng đại này rất to lớn nó làm bật tung lên sự trắng đen thật giả, sự giả nhân giả nghĩa của bọn con cháu, của bọn người tự xưng là văn minh.

Vốn được mệnh danh là nhà văn hiện thực xuất sắc, trong các tác phẩm của mình Vũ Trọng Phụng luôn lôi ra những sự thật ở đời. Có khi miêu tả sự thật với một thái độ thương cảm đau xót, có khi dựng lên một sự thật để châm biếm mỉa mai để mà khinh bỉ căm ghét. Thái độ của Vũ Trọng Phụng trong chương “Hạnh phúc của một tang gia” nhất là trong việc miêu tả đám đông tang gia là một thái độ khinh bỉ căm ghét. Đây là một thái độ rất có trách nhiệm với xã hội, nhà văn muốn cho xã hội thấy được một vẫn đề nghiêm trọng là những giá trị văn hóa cổ truyền đang bị đảo lộn, cơn lốc âu hóa đang làm mai một truyền thống, tha hóa con người.

Bài văn mẫu số 3:

Hạnh phúc của một tang gia thuộc chương XV của tiểu thuyết Số đỏ kể về đám ma của cụ cố Tổ. Đám ma là sự mất mát về người và tình cảm nhưng lại được tổ chức linh đình, hoành tráng như những đám hội, cuộc đưa tiễn tập thể đầy lố lăng nửa Tây nửa Ta đồi bại, giả dối của xã hội thực dân nửa phong kiến. Cảnh “đám ma gương mẫu” không chỉ mang đến tiếng cười hài hước, hóm hỉnh mà tiếng khóc than của những giá trị đạo đức bị băng hoại

Xem thêm bài viết hay:  Công thức cấu tạo của glyxin là?

Nghịch lí của đoạn trích được thể hiện ngay trong nhan đề của chương “Hạnh phúc của một tang gia”, từ bao giờ mà một đám tang lại có thể mang đến niềm hạnh phúc cho con người? Đó chẳng phải nghịch lí khác người, khác thường hay sao? Tuy nhiên, theo dõi toàn bộ chương truyện ta lại thấy nhan đề tác phẩm không thể phù hợp hơn với những cái lố lăng, kệch cỡm diễn ra trong đám ma của cụ cố Tổ.

Thông thường, đám tang cần đảm bảo không khí nghiêm trang để thể hiện tình cảm, sự kính yêu đối với người đã mất. Đám tang của cụ cố Tổ lại thật đặc biệt với những nghi thức lạ lùng, không khí náo nhiệt như trong đám hội. Nghi lễ đám ma có sự xuất hiện theo lối Tây, Ta, Tàu, tiếng khóc của người thân trong gia đình thì chìm nghỉm trong tiếng nói chuyện, cười đùa đầy lố lăng của đám thanh niên nam nữ, của những người tham dự đám ma. Đám ma dường như mất đi không khí thông thường mà trở nên hỗn độn, hài hước như một sân khấu rộng lớn, nơi có rất nhiều diễn viên cùng nhau hoàn thành một vở kịch đầy giả tạo.

Tác giả Vũ Trọng Phụng cũng thể hiện sự chua xót thông qua lời văn bỡn cợt, hóm hỉnh: “Thật đúng là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu”.

Cảnh hạ huyệt là đỉnh cao của bút pháp trào phúng, nơi những nhân vật trong đoạn trích tự bóc trần mặt nạ giả dối của mình. Cậu Tú Tân vì muốn thể hiện tài năng chụp ảnh mà nhảy hết lên ngôi mộ này đến ngôi mộ khác để tự đạo diễn cho cuốn phim của mình. Không những thế, hắn ta còn bắt người này tạo dáng như này, người kia làm thế khác để khung hình đẹp hơn. Cụ cố Hồng vui mừng, hạnh phúc vì được mặc áo xô gai, chống gậy nhưng đến khi hạ huyết cũng đã dốc hết sức để diễn vai của một người con có hiếu, cố Hồng khóc đến lả người đi.

Trong không khí huyên náo ấy còn xuất hiện một tiếng khóc đặc biệt khiến người đọc cười ra nước mắt, đó chính là tiếng khóc của Phán mọc sừng, vốn là cháu rể của người mất. Điều đáng nói là với quan hệ với người mất, Phán mọc sừng sẽ không cảm thấy đau khổ mà khóc đầy thương tâm như thế “hứt hứt hứt”, hắn khóc đến oặt người đi mà ngã vào tay của Xuân Tóc Đỏ. Nhưng ai ngờ rằng hắn ta nào có chút thương xót nào cho người đã mất, hắn đã dựng lên màn kịch mà hắn là đạo diễn và cũng kiêm luôn vai diễn chính của người cháu hiếu thảo để thực hiện nốt “giao dịch” với Xuân tóc đỏ. Cái bi hài thể hiện ở chỗ miệng khóc nhưng tay Phán mọc sừng lại dúi nhanh tờ bạc năm đồng gấp làm tư để trả công cho kẻ đã chỉ tay vào mặt hắn mà nói “Thưa ngài, ngài là người chồng mọc sừng”.

Có thể nói, đám ma của cụ cố Tổ là “đám ma gương mẫu”, đám ma có một không hai nơi phơi bày đến tận cùng những cái xấu xa, giả tạo của những con người thuộc tầng lớp trên của xã hội.

Bài văn mẫu số 4:

Với đặc điểm là một tiểu thuyết hoạt kê, tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng đã miêu tả thật sống động bao nhiêu cảnh đời và con người mang tính hài hước, giễu cợt. Không chỉ một cuộc đời của nhân vật chính – Xuân Tóc Đỏ – đáng cười, mà hầu như tất cả các nhân vật, các tình huống, chi tiết truyện đều đáng cười, đáng phê phán.

Chương XV của tác phẩm với tiêu đề Hạnh phúc của một tang gia – miêu tả đám tang cụ cố tổ, giống như một chuỗi cười dài, một cuộc đưa tiễn tập thể, cuộc hành trình tới mộ của cả xã hội, cái xã hội tư sản thành thị Âu hóa rởm, văn minh rởm hết sức lố lăng, đồi bại đang hiện diện ở Việt Nam những năm 30 – 45 của thế kỉ XX. Mỗi tình huống truyện, mỗi nhân vật cứ tự nhiên làm bật ra tiếng cười. Tiếng cười mang nhiều sắc độ, liên tục không dứt. Nó kéo dài trong suốt thời gian đám tang, suốt cuộc hành trình đưa tiễn…

Đọc tên chương – Nguyên văn trong tác phẩm là: Hạnh phúc của một tang gia – một cái đám ma gương mẫu… chúng ta không khỏi bật cười bởi cách thông báo hóm hỉnh của nhà văn. Nội dung sự việc là một việc đau đớn, bất hạnh. Vậy mà tang gia lại có hạnh phúc! Việc tang là nghi lễ thiêng liêng, cần trang trọng, vậy mà ngôn từ dành cho cái việc đại hiếu của một gia đình như gia đình cụ cố Hồng lại hỗn độn, pha trộn tùy tiện chữ Hán, chữ Nôm, nào hạnh phúc, nào tang gia, nào văn minh, gương mẫu, cứ như chuyện đùa, chuyện vui vậy! Cái sự đùa vui ấy mở màn cho vở hài kịch mà trên sân khấu hiện thật rõ hai trạng huống nực cười: đám tang nhưng không phải là đám tang, nó là một đám…. rước. Có người nhưng không phải là con người mà là…. những hình nhân dị dạng, những quái vật.

Sau thời gian bối rối theo lẽ thường tình của một nhà có việc tang, khi ba người quan trọng nhất – ông cố Hồng, bà vợ và Văn Minh từ trên gác xuống dưới nhà cắt đặt mọi việc, thì cái gia đình có đại tang đó bừng lên một ngày hội. Lúc đưa đám thì cả bàn dân thiên hạ ở phố phường, ai cũng thấy đám ma được tổ chức linh đình, đủ kiểu cách, lễ nghi theo cả lối ta, Tây, Tàu. Đám ma đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy. Cả thành phố nhốn nháo… Kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên. Tiếng khóc của những người trong tang gia xen lẫn tiếng thì thầm về chuyện vợ con, nhà cửa, may áo, sắm tủ, hoặc những tiếng nói thì thào của bọn đàn ông bình phẩm sắc đẹp của các cô gái, than thở việc vợ béo, chồng gầy. Vậy đấy, trên cái sân khấu hài hước, người đọc thấy được một khung cảnh pha tạp, hỗn độn, đồ vật và con người hỗn độn, âm thanh và màu sắc hỗn độn, việc vĩnh biệt một con người là việc đùa vui, tiếng khóc của nhiều người cũng hỗn độn. Đám rước mà như ở hội chợ. Đám tang hay đám rước? Bởi vì, như tác giả kể: Đám cứ đi rồi lại đám cứ đi. Những lời văn bỡn cợt, lơ lửng, hóm hỉnh, chua chát. Và ông nhận xét: Thật đúng là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu.

Đỉnh cao màn kịch trào phúng của đám ma thì cảnh hạ huyệt lại là cao trào tập trung những mâu thuẫn đáng cười nhất. Tú Tân xuất hiện như nhà đạo diễn cuốn phim hài kiêm quay phim nhiếp ảnh, cùng bạn bè rầm rộ nhảy lên những ngôi mả như muốn đánh thức những linh hồn chết kia trở dậy để chứng kiến đám tang linh đình về người ông của hắn. Hắn bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy hoặc gục đầu hoặc cong lưng… cho đúng mốt hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ… hợp thời trang để làm nên những tấm ảnh giả về cái chết thật và những tấm ảnh thật về cái chết của nhân tính.

Xem thêm bài viết hay:  Cách điều chế CH3CHO?

Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt. Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng, ông oặt người đi, khóc mãi không thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt. Nhưng thực ra đó là tiếng khóc nhằm che giấu nụ cười nên không ra khóc mà cùng chẳng ra cười. Cuối cùng chỉ là những âm thanh méo mó: Hứt! Hứt! Hứt!… Ông thương cho người đã khuất chăng? Không phải! Ông đang đóng kịch trước mắt mọi người. Thực ra ông ta rất mừng vì cụ Tổ chết và ông được chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ tờ bạc năm đồng gấp làm tư để trả công cho hắn đã gọi ông là Phán mọc sừng trước người nhà vợ. Và cũng nhờ đó mà ông có thêm được món tiền lớn.

Đám ma trong Hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng là đám ma có một không hai không chỉ nó to nhất Hà thành xưa nay mà vì những diễn biến của đám tang đó, những màn kịch đã xuất hiện. Ta như có cảm tưởng Vũ Trọng Phụng đang chứng kiến cái đám tang đó và tường thuật lại cho người đọc một cách chi tiết về nó với một nụ cười châm biếm mỉa mai. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao. Đằng sau những lời nói như đùa, sự thật của đời sống cứ hiện ra lồ lộ trên đó nói lên hai điều lớn nhất: sự tàn nhẫn và sự dối trá.

Bài văn mẫu số 5:

Ở đời, có mấy ai là “sung sướng”, “hạnh phúc”, “vui vẻ” trước cái chết của con người, trừ khi đó là cái chết của kẻ thù không đội trời chung. Huống chi đó lại là cái chết của người thân, là sự ra đi của các đấng sinh thành, thì làm sao có thể lấy làm hạnh phúc được? Thế mà kỳ lạ và mỉa mai thay, có một “tang gia” trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng lại “hạnh phúc” thật, lại “nhiều người sung sướng lắm”, lại “ai cũng vui vẻ cả”…!

Để dàn dựng một màn hài kịch cười, trước hết phải phát hiện ra một mâu thuẫn trào phúng. Tiếng cười có muôn hình vạn trạng, tuy nhiên bao giờ nó cũng bật ra trước một mâu thuẫn trào phúng được phóng đại lên.

Mâu thuẫn trào phúng trong Hạnh phúc của một tang gia được gợi lên ngay từ cái nhan đề của nó. Tang gia mà lại hạnh phúc! Nhà có người chết mà lại vui! Tang gia quả có bối rối nhưng đó là cái bối rối sung sướng, bối rối không phải để tổ chức một đám rước, một ngày hội.

Người chết là cụ cố tổ. Cụ mất đi để lại một gia tài lớn. Nhưng ông già quái ác này lại ghi trong di chúc: chỉ chia gia tài cho con cháu khi cụ đã qua đời. Thật là sốt ruột, vì cụ cứ sống mãi. Con cái, dâu rể đều chờ đợi cái chết của cụ như chờ đợi một hạnh phúc vậy.

Và hạnh phúc đã đến. Đặc sắc của đoạn trích là đã diễn tả được chung quanh hạnh phúc chung của tang gia, mỗi thành viên trong gia đình lại có một hạnh phúc riêng không ai giống ai, gắn liền với tính cách riêng của mỗi người và mỗi nhân vật lại có một mâu thuẫn trào phúng.

Chẳng hạn như cụ cố Hồng. Vì là cụ cố nên luôn đóng vai già yếu, tuy tuổi cụ mới ngoài 50. Xưa nay, cụ mới đóng trò già yếu trong nhà, nay nhờ có đám tang cụ được diễn trò già yếu trước hàng nghìn người. “Cụ cố Hồng đã nhắm nghiền mắt mà mơ màng đến lúc cụ mặc đồ xô gai. Lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: Úi chà! Trông kìa! Con trai lớn đã già đến thế kia kìa!”

Vợ chồng Văn Minh thì chắc chắn sẽ được chia một gia tài kha khá, chỉ còn phải lo mời luật sư đến chứng kiến cái chết của cụ cố tổ để cái chúc thư kia đi vào giai đoạn thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa.

Đây cũng là dịp để tiệm may âu hóa và ông có thể lăng xê những mốt trang phục táo bạo nhất có thể cho những ai có tang đang đau đớn, vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời.

Cô Tuyết thì sung sướng vì được mặc bộ y phục Ngây thơ hở cả nách và nửa vú viền đen, đội cái mũ mấn xinh xinh. Tuyết mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại có vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt.

Ông Phán mọc sừng lại hả hê vì đã được cụ cố Hồng hứa chia thêm cho vài nghìn đồng. Chính cụ cũng không ngờ giá trị đôi sừng hươu của mình lại to đến như thế. Cậu Tú Tân thì mừng điên người vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà vẫn chưa được dùng đến. Xuân Tóc Đỏ càng được vênh vang hơn vì nhờ nó mà cụ Cố mới lăn đùng ra chết. (Nó tố cáo ngay trước mặt cụ tội ngoại tình của cô Hoàng Hôn, cháu gái của cụ, và cắm sừng vào đầu ông Phán, cháu rể cụ). Là cố vấn của báo Gõ Mõ, Xuân còn đem lại danh giá bất ngờ cho đám tang vì đã bổ sung vào sự long trọng sáu chiếc xe chở sư cụ chùa bà Banh, đại diện hội Phật Giáo, báo Gõ Mõ cùng với những vòng hoa đồ sộ….

Hạnh phúc còn lan ra cả ngoài gia đình người chết. Cảnh sát Min Đơ, Min Toa được thuê giữ trật tự cho đám tang. Những bạn bè tai to mặt lớn của cụ cố Hồng được dịp khoe khoang sự oai vệ và danh giá của mình, những bội tinh và râu ria…. Hàng phố thì vui quá vì mấy khi được xem đám ma to như thể là hội chợ.

Một trong những nét đặc sắc của chương truyện là tả đám đông ồn ào. Láo nháo, nhặng xị. Dường như có ý thức khi vận dụng kĩ thuật điện ảnh, tác giả lùi xa quay toàn cảnh đám tang đang nghiêm chỉnh đi theo quan tài người chết đến tận huyệt với cái điệp khúc đám cứ đi…. Có khi lại dí sát ống kính quay cận cảnh để thấy đây không phải là một đám ma mà là một đám rước, đám hội hết sức vui vẻ. Đám cứ đi nhưng không ai nghĩ đến việc đưa đám. Đến đây không phải để khoe những bộ ngực đầy huân, huy chương và những bộ râu ria oai vệ thì cũng để thì thầm với nhau về những chuyện vợ con, chuyện sắm một cái áo, cái tủ…. Còn bọn thanh niên thì chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau bằng vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa đám ma.

Màn kịch kết thúc bằng chi tiết hài hước “chó đểu”. Ông Phán mọc sừng dúi vào tay Xuân 5 đồng thanh toán tiền thuê Xuân tố cáo cái nhục mọc sừng của ông ta. Hạnh phúc của một tang gia là tác phẩm dùng hình thức chế giễu lật tẩy tính chất bịp bợm của những tầng lớp gọi là thượng lưu, trí thức của Hà Nội xưa.

Đăng bởi: THCS Ngô Thì Nhậm

Chuyên mục: Lớp 11, Ngữ Văn 11

Bạn thấy bài viết Phân tích cảnh đám ma gương mẫu trong Hạnh phúc của một tang gia

| Ngữ Văn 11
có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích cảnh đám ma gương mẫu trong Hạnh phúc của một tang gia

| Ngữ Văn 11
bên dưới để duhoc-o-canada.com có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: duhoc-o-canada.com của duhoc-o-canada.com

Chuyên mục: Giáo dục

Nhớ để nguồn bài viết này: Phân tích cảnh đám ma gương mẫu trong Hạnh phúc của một tang gia

| Ngữ Văn 11
của website duhoc-o-canada.com

Viết một bình luận