Soạn văn 11: Viết bài văn số 5. Nghị luận văn học
Đề 1 (trang 10 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
Đề cương:
Khai mạc:
– Dẫn dắt, giới thiệu những nét cơ bản về Đại thi hào Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều.
– Nhưng dưới thời phong kiến, đã có thời Truyện Kiều bị quy kết là “dâm thư” và lưu truyền câu nói: “Đàn bà chớ kể cho Thúy Vân, Thúy Kiều”.
– Khẳng định đây là ý kiến không đúng về nội dung “Truyện Kiều” và nêu quan điểm của bản thân.
Thân bài:
1. Giải thích câu nói
Câu nói cảnh báo những người phụ nữ trong xã hội không được làm trái với lễ giáo phong kiến như Thúy Kiều.
2. Vì sao có câu nói trên?
– Đây là quan điểm không đúng của một số nhà Nho bảo thủ trong thời kỳ phong kiến.
Có câu nói là do quan niệm đạo đức của người phụ nữ thời phong kiến mà Nho giáo quy định:
+ Đạo lý đó quy định người phụ nữ phải tiết hạnh, phải giữ chữ trinh làm đầu.
+ Người phụ nữ sống trong xã hội cũ nhất thiết phải tuân theo tam tòng, ngũ thường, đảm bảo lời nói và hành vi.
– Các nhà Nho cho rằng hành động của Kiều coi thường chuẩn mực đạo đức phong kiến
+ Nho giáo quy định “cây nam, cây nữ không đội trời chung” -> Thúy Kiều dám: “Đêm khuya một mình xăm xăm qua vườn” gặp Kim Trọng để thổ lộ lòng mình. Điều này đã xảy ra hai lần.
+ Trong suốt mười lăm năm lưu lạc, Thúy Kiều đã phải trải qua: “Hai lần Thanh Lâu, hai lần Thanh Y” (2 lần bị bán vào lầu xanh của Bạc Bà, Bạc Hạnh; lấy Thúc Sinh rồi lấy chồng phụ). .Từ Hải)
=> Lí do mà các nhà Nho phê phán, lên án Thúy Kiều.
3. Phân tích lỗi sai, tính phiến diện của câu văn.
Đây là quan điểm phiến diện và sai lầm vì nhiều lý do:
Quan điểm trọng nam khinh nữ của Nho giáo chính là nguyên nhân khiến cho việc đánh giá phẩm giá của người phụ nữ khắt khe một cách thái quá.
Kiều là người phụ nữ có số phận đáng thương và tâm hồn đáng trân trọng.
Yêu Kim Trọng, nàng đã dám vượt qua những ràng buộc hà khắc của lễ giáo phong kiến để chủ động đi tìm hạnh phúc của đời mình. Dù là người chủ động đến với Kim Trọng nhưng Kiều luôn giữ sự đoan trang, kiềm chế và đoan trang.
+ Đối với cha mẹ, Thúy Kiều là người con có hiếu -> Thúy Kiều đã phải gác lại mối tình đầu trong sáng, tha thiết với Kim Trọng để rồi quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh để đổi lấy ba trăm lạng vàng. Số tiền đó đủ chuộc cha và anh tôi ra tù.
+ Tất cả những dằn vặt mà Kiều phải trải qua không phải do nàng chủ động làm mà do hoàn cảnh bắt ép nàng quá nhiều.
Kết thúc:
– Phủ nhận tính đúng đắn của nhận định trên.
– Kiều là nạn nhân đáng thương của xã hội phong kiến khắc nghiệt; Kiều là người phụ nữ đẹp về tâm hồn và sắc đẹp.
– Khẳng định giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
Đề 2 (trang 10 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
Khai mạc
– Giới thiệu đề tài người nông dân trước Cách mạng trong các sáng tác của Nam Cao: Lão Hạc, chị Dậu… Họ đều là những kiếp người với những bi kịch cuộc đời.
– Cùng với đề tài đó, khi nhắc đến Nam Cao, không ai có thể quên hình ảnh Chí Phèo – người nông dân nghèo khổ đại diện cho số phận của người nông dân bị tha hóa, mất cả nhân hình lẫn nhân tính.
Thân hình
1. Chí Phèo thực chất là một người nông dân lương thiện, sống với những ước mơ bình dị.
– Chí Phèo là một người làng Vũ Đại tốt bụng:
+ Hoàn cảnh sống vô cùng đáng thương: Mới chào đời, còn đỏ hỏn, Chí đã bị bỏ rơi cạnh cái lò gạch cũ giữa cánh đồng mùa đông trắng xóa.
+ Chí Phèo được mọi người nhặt về và lớn lên dưới sự cưu mang của cả làng Vũ Đại, lớn lên trở thành một người nông dân chân chất, sống bằng sức lao động của mình. + Chí sống qua ngày với ước mơ bình dị, giản dị như bao người: “có một gia đình nhỏ. Chồng cuốc cày, vợ dệt vải. Họ để lại một con lợn nuôi làm vốn. Khá giả thì mua vài sào ruộng để làm”.
+ Chí có lòng tự trọng của một con người chân chính: Khi bị bà ba gọi bóp chân đấm lưng, Chí không thích mà chỉ thấy xấu hổ -> Chí giàu lòng tự trọng.
=> Đây là quãng thời gian yên bình nhất trong cuộc đời Chí, bởi đó là cuộc đời lương thiện, cuộc đời trẻ thơ đầy mộng đẹp.
2. Chí Phèo lưu manh, mất cả hình hài và nhân tính.
– Nguyên nhân: Sự ghen tuông vô cớ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù. Nhà tù thực dân đã thành công trong việc biến Chí Phèo từ một nông dân khỏe mạnh trở thành một kẻ du côn, một tên tội phạm.
– Hình dáng con người trở nên gớm ghiếc: “đầu hói, mặt đen nhưng rất vạm vỡ, đôi mắt trông rất dữ tợn… ngực nở rộng, đầy hình rồng phượng, tướng cầm chùy, cũng vậy. cả hai cánh tay.”
– Mất nhân tính, trở thành ác ma làng Vũ Đại:
+ Chí xuất hiện ở đầu tác phẩm với lời chửi: “chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha không chửi nhau với con”. Rồi chửi người đã sinh ra mình -> lời giao tiếp vô cùng thô tục nhưng thể hiện sự ham muốn giao tiếp, Chí không còn được coi là con người nữa.
+ Hắn trở thành tay sai cho Bá Kiến, đối đầu với quyền lợi của làng Vũ Đại – những người đã cưu mang hắn.
+ Chí sống bằng men rượu, máu và nước mắt của bao người lương thiện: đập đầu, rạch mặt, giết nhiều người trong lúc say rồi say không dứt.
=> Cuộc đời Chí bị cái xã hội tàn ác bóp nghẹt ước mơ và khát vọng của Chí, những người nông dân bị bần cùng hóa dẫn đến du côn.
3. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người – bi kịch đau đớn nhất của Chí.
– Thị Nở xuất hiện trong cuộc đời Chí – Thị Nở xấu xa “ma chê quỷ hờn” đã khơi dậy và thức tỉnh bản chất con người Chí Phèo.
– Cuộc tình ngắn ngủi trong đêm trăng có ý nghĩa rất lớn đối với Chí: Chí nghe thấy âm thanh của cuộc sống, nhớ đến những giấc mơ của mình, Chí cảm thấy buồn -> ân hận về những việc trước đây.
– Bát cháo thị nấu là liều thuốc giải cả sinh học và tâm hồn, góp phần đánh thức phần quỷ của con người.
– Bà Thị Nở, đại diện cho định kiến xã hội ngăn cản Chí đến với Thị, chặn đường chuộc lỗi của Chí. -> Tuyệt vọng, Chí uống rượu say rồi vác dao đến nhà Bá Kiến đâm Bá Kiến chết rồi tự sát.
– Hành động đâm chết Bá Kiến rồi tự sát là lời lên án xã hội phong kiến tàn ác, bóc lột người nông dân một cách dã man.
Kết thúc
– Khẳng định giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm.
– Tài năng của tác giả.
Đề 3 (trang 10 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
Khai mạc:
– Giới thiệu tác phẩm “Chữ người tử tù” – tiêu biểu cho phong cách Huấn Cao.
– Dẫn đến thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục là minh chứng cho thiên tài và tấm lòng vĩ đại của Huấn Cao.
Thân bài:
1. Cuộc gặp gỡ “kỳ quái” và đặc biệt giữa Huấn Cao và viên cai ngục
+ Không gian: nhà tù. Đây là một nơi ẩm thấp, tối tăm, nơi không ai muốn đặt chân vào nữa là chuyện trò, chuyện trò.
+ Thời gian: những ngày ngắn ngủi trước khi Huấn Cao bị xử tử.
⇒ Không gian, thời gian góp phần quan trọng làm tăng kịch tính của tình huống.
– Cuộc gặp gỡ bất thường của hai con người không bình thường: Một tử tù, một quản giáo, hai địa vị khác nhau.
Sự thay đổi thái độ của ông Huấn đối với viên cai ngục là một yếu tố rất quan trọng tạo nên cao trào của tình huống truyện và tạo nên sự kịch tính, hấp dẫn của cuộc gặp gỡ này.
2. Diễn biến tâm lí của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục
– Khi Cao Huấn xuất hiện:
+ là người có chí khí, tài hoa, không dễ để quản giáo tiếp cận.
+ thái độ gan góc, dũng cảm. Anh không quan tâm đến đám lính áp giải mình, không mảy may để ý đến vẻ mặt và cách tiếp nhận tù nhân vô cùng nhẹ nhàng, khác hẳn ngày thường của quản giáo.
+ Chi tiết Huấn Cao dỗ dành thể hiện sức mạnh, khí phách lớn lao của người anh hùng.
+ Khi bị biệt đãi, ông vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, trả lời viên quản ngục với thái độ hết sức khinh thường “Ta chỉ có một điều ước là gia đình ngươi đừng bao giờ đặt chân đến đây nữa”.
=> hoàn toàn coi thường viên quản ngục.
– Sự thay đổi thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục:
+ Nguyên nhân: Cán bộ trại giam tâm sự, chia sẻ với cô giáo dạy thơ.
+ Sự thay đổi đó thể hiện rõ nhất qua câu nói “Biết đâu một người như thầy Quân đây lại có những sở thích cao cả như vậy, suýt nữa thì tôi đã mất một trái tim trên đời”.
+ Từ chỗ là ánh mắt khinh thường của ông Huấn đã chuyển sang thực sự cảm động trước tấm lòng say mê cái đẹp của viên quan ngục.
+ Ông Huấn đã đưa ra câu trả lời cho tình cảm ấy bằng một khung cảnh chưa từng có. [..]
+ Ông Huấn đưa ra lời khuyên với quản ngục về việc thay đổi chỗ ở để giữ sạch của trời cho -> sự thăng hoa của sự hòa giải giữa hai người.
– Hình ảnh Huấn Cao “dập lem” trên “tấm lụa trắng còn nguyên sờn” trong hoàn cảnh “cổ còng, chân bị cùm” trong ngục tối ⇒ kết tinh của tài năng và khí phách. , Thiện Lương
Kết thúc
– Khẳng định sự thay đổi thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục là hoàn toàn hợp lý và có nhiều ý nghĩa.
Rút ra những nhận thức có ý nghĩa của con người về cái đẹp.
Đăng bởi: THCS Ngô Thì Nhậm
Chuyên mục: Văn lớp 11 , Ngữ Văn 11
Bạn thấy bài viết Soạn bài Viết bài làm văn số 5. Nghị luận văn học chi tiết nhất
– Soạn văn 11
có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Soạn bài Viết bài làm văn số 5. Nghị luận văn học chi tiết nhất
– Soạn văn 11
bên dưới để duhoc-o-canada.com có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: duhoc-o-canada.com của duhoc-o-canada.com
Chuyên mục: Giáo dục
Nhớ để nguồn bài viết này: Soạn bài Viết bài làm văn số 5. Nghị luận văn học chi tiết nhất
– Soạn văn 11
của website duhoc-o-canada.com